Equality rights between wife and husband according to the law of marriage and family Vietnam = Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Hiện
nay, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được BLDS và Luật HNGĐ 2014 điều chỉnh, cụ
thể, tại Điều 40 BLDS 2005 quy định: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền,
nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự, cùng
nhau xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc bền vững”
Điều
19 Luật HNGĐ 2014 quy định: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền
ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”. Điều này thể hiện sự bình đẳng của vợ chồng
khi cùng nhau bàn bạc, quyết định các vấn đề liên quan đến nhân thân và về tài
sản của vợ chồng và của mỗi thành viên trong gia đình, liên quan đến đời sống
chung của gia đình.
- Quyền bình đẳng của vợ
chồng được thể hiện qua quyền lựa chọn nơi cư trú (Điều 20 Luật HNGĐ 2014)
Việc
lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng không bị ràng buộc theo phong tục tập quán, địa
giới hành chính, vợ chồng lựa chọn nơi cư trú hoàn toàn dựa và hoàn cảnh thực tế,
tính chất hoạt động nghề nghiệp, khả năng tài chính… Ngoài ra, trong trường hợp
vợ chồng vì lí do công việc mà không thể cùng lựa chọn một nơi cư trú thì họ
hoàn toàn có thể tự lựa chọn nơi cư trú riêng mà không ảnh hưởng tới việc thực
hiện nghĩa vụ với nhau và với gia đình. Điều này được thể hiện:
- Quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng trong việc nuôi dạy con:
Điều
2 Luật HNGĐ 2014 quy định: “Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có
ích cho xã hội”, do vậy, vợ chồng đều bình đẳng với nhau trong việc trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con… tạo điều kiện cho con được sống trong môi
trường lành mạnh, yêu thương, tôn trọng ý kiến của con, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của con, quan tâm, chăm lo cho sự phát triển của con về cả thể chất lẫn
tinh thần… Đồng thời, vợ chồng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật khi họ
không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trong việc chăm sóc, giáo dục con.
- Nghĩa vụ thực hiện
chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình:
Theo
quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật HNGĐ 2014 thì nghĩa vụ thực hiện chính sách
dân số là nghĩa vụ chung của vợ chồng, vợ chồng phải cùng nhau tạo điều kiện
cho nhau thực hiện tốt nghĩa vụ này.
- Quyền được lựa chọn
nghề nghiệp, học tập và tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội:
Dựa
trên nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt theo Luật HNGĐ 2014 và
nguyên tắc nam nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa,
gia đình và xã hội; việc vợ chồng được tự lựa chọn nghề nghiệp riêng cho bản
thân là hoàn toàn chính đáng, nhằm xóa bỏ quan hệ bất bình đẳng trong quan hệ vợ
chồng vẫn tồn tại hiện nay, đồng thời việc học tập nâng cao trình độ không chỉ
là quyền mà còn là nghĩa vụ của mỗi công dân, do vậy vợ chồng cần có sự bình đẳng
và không có sự ngăn cản nhau trong việc thực hiện quyền này.
- Quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo:
Quyền
này được quy định tại Điều 22 Luật HNGĐ 2014: “Vợ, chồng tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc
không theo một tôn giáo nào”. Đây là môt quy định nhằm xóa bỏ hiện tượng khi kết
hôn một bên vợ hoặc chồng ngăn cản sự tự do tín ngưỡng, tôn giáo của bên kia
làm ảnh hưởng không chỉ quyền của công dân được pháp luật quy định mà còn ảnh
hưởng đến hạnh phúc gia đình.
Mời
các bạn quan tâm đến đề tài tìm hiểu luận văn cùng chủ đề “Equality rights
between wife and husband according to the law of marriage and family Vietnam = Quyền
bình đẳng giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” của tác giả
Trần Thị Mai Hương tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/14634
Nhận xét
Đăng nhận xét